Cha đẻ 40 loại vaccine bị cho là khùng điên khi cảnh báo đại dịch cúm
Nhà khoa học Maurice R. Hilleman dự đoán dịch cúm sẽ lan từ Hong Kong tới Mỹ năm 1957 và hối thúc chuẩn bị 40 triệu liều vaccine để phòng bệnh, song bị mắng là điên rồ.
Ngày 17/4/1957, khi đang ngồi trong văn phòng, Hilleman, 38 tuổi, trưởng khoa bệnh hô hấp ở Viện nghiên cứu Quân đội Walter Reed (Mỹ) đọc được một bài báo của New York Times, đưa tin Hong Kong có một đợt bùng phát cúm diện rộng do chủng virus "cúm châu Á". Trong đó, ông chú ý chi tiết "khoảng 20.000 người xếp hàng để được đưa tới trạm xá" và "những phụ nữ cõng trên lưng trẻ nhỏ có đôi mắt đờ đẫn, chờ đợi đến lượt". Nhân viên y tế dự phòng ước lượng virus đã lây lan cho khoảng 250.000 trường hợp, tương đương 10% dân số Hong Kong. Ông cho rằng vụ dịch ở Hong Kong là tín hiệu của đại dịch.
Theo Vaccine Makers Project, nhận định của Hilleman xuất phát từ kinh nghiệm trong quá khứ. Ông sinh năm 1919, ngay giữa đại dịch cúm Tây Ban Nha gây số ca tử vong lớn nhất lịch sử toàn cầu. Số người chết do bệnh còn lớn hơn số tử vong trong Thế chiến I. Nhiều người trẻ thiệt mạng do tăng tiết dịch gây ngạt thở, không có phương pháp điều trị hoặc phòng ngừa.
Khi Mỹ tham gia vào Thế chiến II, dịch cúm vẫn còn đó, vì vậy nước này phải tìm cách bảo vệ binh lính khỏi bệnh tật. Quân đội cử các nhà khoa học nghiên cứu, phân lập và chế tạo vaccine, nhưng chỉ có tác dụng trong vòng một năm. Do đó, Hilleman được bổ nhiệm để nghiên cứu thêm và phòng ngừa các đại dịch có thể xảy đến trong tương lai.
Sau đó, ông phát hiện virus biến đổi, tạo ra chủng mới, khiến cho hệ miễn dịch không thể nhận diện mầm bệnh sau một năm, khi lây nhiễm có thể gây chết người. Từ đó, nhà khoa học dự đoán và phòng ngừa được dịch cúm.
Trước vụ dịch ở Hong Kong, Hilleman tin rằng nước Mỹ sẽ sớm bị tấn công, không còn thời gian để chờ đợi. Ông lấy mẫu virus từ hải quân, nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, tham khảo với nhiều cơ sở y tế khác, phát hiện virus đã biến đổi trở thành một loại mới hoàn toàn. Tương tự các dịch cúm trước đó, con người không có miễn dịch với loại virus này, trừ một nhóm nhỏ người cao tuổi sống sót sau vụ dịch năm 1889 và 1890. Tức là, mọi người đều có nguy cơ nhiễm bệnh.
"Ông ấy đã sợ hãi và khủng hoảng trước phát hiện này", Paul Offit, Giám đốc Trung tâm giáo dục về vaccine tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia, Mỹ, cộng sự của Hilleman, nói.
Ngày 22/5/1957, nhà khoa học gửi đi một thông cáo báo chí, tuyên bố đại dịch cúm mới đã xuất hiện. Tuy nhiên, không người nào tin tưởng phán đoán của nhà khoa học. Trong cuốn tiểu sử Vaccinated, Hilleman viết: "Tôi rất khó khăn để thuyết phục mọi người tin vào dự đoán này. Tôi còn nhận được một cuộc gọi từ nhà miễn dịch học Australia, mắng rằng không thể nói rằng virus đã thay đổi. Joe Bell (làm việc tại cơ quan Dịch vụ y tế công cộng Mỹ) cũng không tin tưởng".
Nhưng ông không để tâm, tiếp tục mở rộng dự báo, cho rằng virus sẽ tiếp tục lan rộng trên toàn cầu và sẽ xâm nhập Mỹ vào khoảng tháng 9/1957. "Khi tôi tiếp tục gửi thông cáo báo chí, nói rằng đại dịch sẽ đến vào ngày thứ hai hoặc ba sau khi mở cửa trường học, đã bị mắng là điên rồ", ông viết.
Tuy nhiên, Hilleman không bỏ cuộc. Ông liên hệ trực tiếp với các nhà sản xuất dược phẩm và yêu cầu họ chế tạo vaccine theo công thức của mình, trong đó không giết gà trống để thụ tinh đủ trứng nhằm sản xuất vaccine. Các hành động này chưa được cơ quan quản lý vaccine của Mỹ chấp thuận, song các công ty đã đồng thuận. Khoảng 40 triệu mũi tiêm đã được phân phối sau đó.
Các hành động này tiếp tục đặt Hilleman vào tình thế khó: nếu dự đoán đúng, vô số sinh mạng sẽ được cứu sống; ngược lại, hàng triệu người Mỹ đã chủng ngừa vô ích, danh tiếng của ông sẽ bị hủy hoại.
Khi virus đến Mỹ vài tháng sau, vaccine đã giúp giảm thiệt hại. Nước này ghi nhận 70.000 đến 116.000 ca tử vong, thấp hơn nhiều so với con số 675.000 ca tử vong trong dịch cúm Tây Ban Nha. Thế giới ghi nhận 1-4 triệu ca tử vong, cũng thấp hơn nhiều so với các vụ dịch trước đó. Các chuyên gia cho rằng hậu quả đã được giảm thiểu nhờ sự kiên trì của Hilleman.
Maurice R. Hilleman sau này được xếp hạng trong nhóm những người tạo ra vaccine xuất sắc và hiệu quả nhất mọi thời đại, tầm vóc tương đương Edward Jenner (người nghiên cứu mũi tiêm ngừa sởi cùng nhiều phát minh quan trọng khác) và Louis Pasteur (cha đẻ ngành vaccine). Ông phát triển hơn 40 loại mũi tiêm, trong đó có nhiều loại dành cho trẻ em, được ghi nhận đã cứu sống hàng triệu người, được trao Huân chương Khoa học Quốc gia Mỹ vì những đóng góp cho sức khỏe cộng đồng năm 1988.
Chi Lê (Theo History, Vaccine Makers Project, Nature)